Hoàn cảnh Luật_10-59

Máy chém dưới thời Ngô Đình Diệm. Hiện máy đang được trưng bày tại Bảo tàng TP. Cần Thơ, Việt Nam.

Năm 1958, Mỹ tăng cường viện trợ về tài chính và vũ khí, nên chế độ Việt Nam Cộng hoà được củng cố. Quân đội Việt Nam Cộng hoà thực hiện nhiều cuộc rà soát với mục đích bắt giữ những thành viên từng tham gia kháng chiến chống Pháp của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (được gọi chung với cái tên Việt Minh), là đối thủ cũ của Pháp và Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa).

Tuy chiếm ưu thế nhưng Việt Nam Cộng hoà đang gặp thách thức nghiêm trọng. Trên chiến trường, những thành viên cũ của lực lượng Việt Minh không chỉ hoạt động để tự vệ mà nhiều nhóm đã dần tập hợp lại thành tổ chức có quy mô tiểu đội, trung đội, đại đội thuộc sự lãnh đạo của các Tỉnh uỷ hoặc Xứ uỷ Nam Bộ. Những nhóm này bắt đầu thực hiện những cuộc tấn công vào lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hoà tại nhiều nơi. Năm 1957, Việt Minh bắt đầu thực hiện chiến dịch ám sát các viên chức Việt Nam Cộng hòa[2]. Điều này giải thích vì sao đầu năm 1959, trong khi hô hào "Bắc tiến", chính quyền Việt Nam Cộng hoà lại tuyên bố "đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh" (tháng 3 năm 1959).

Tháng 4 năm 1959, Quốc hội Việt Nam Cộng hoà thông qua luật số 91. Luật ấy được ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 mang tên "luật 10-59" về thành lập các "tòa án quân sự đặc biệt". Theo luật 10-59, bản án chỉ có hai mức: tử hình cho các tội cố sát, đầu độc hay bắt cóc; phá hoại cơ sở hạ tầng, nhà cửa, mùa màng, hầm mỏ, phương tiện vận chuyển hoặc khổ sai chung thân với các tội cướp có khí giới hoặc từ 2 người trở lên; cản trở giao thông bằng cách khủng bố, đe doạ; đe dọa giết người, ám sát; phá phiên chợ hay ngăn cản không cho họp chợ. Những người gia nhập một tổ chức hoặc giao kết với nhau, để giúp đỡ chuẩn bị hoặc thực hiện những hành vi vừa kể cũng sẽ chịu hình phạt như thủ phạm. Bộ trưởng Quốc phòng có thể ra lệnh có viện dẫn lý do để đưa bị can ra Toà án Quân sự Đặc biệt xét xử, không cần thẩm cứu; toà án Quân sự Đặc biệt sẽ nhóm họp để xét xử trong thời hạn là 3 ngày sau khi nhận được lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng, Toà án Quân sự Đặc biệt xử chung thẩm và án văn không được thượng tố lên Toà Phá án; trong trường hợp xử tử hình, án văn chỉ được thi hành sau khi đơn xin ân xá bị bác bỏ.